KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ DÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG NÃO TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
TÓM TẮT
Mục đích: Dò động tĩnh mạch màng cứng não (DĐTMMCN) là dò từ động mạch vào tĩnh mạch màng cứng và hoặc xoang tĩnh mạch màng cứng tại não. Nguy cơ đột quỵ xuất huyết não hàng năm lên đến 10,5%, nguy cơ cao khi có dội ngược vào tĩnh mạch vỏ não và gia tăng nguy cơ xuất huyết lên đến 69% ở vị trí lều tiểu não [3], [4]. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị như phẫu thuật, xạ phẫu với tia gamma nhưng can thiệp nội mạch được xem là lựa chọn hàng đầu [3]. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật can thiệp nội mạch trong điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng não.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được can thiệp nội mạch dò động tĩnh mạch màng cứng não tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 06/2015 đến tháng 05/2016, với kỹ thuật thực hiện: chụp mạch chẩn đoán dò động tĩnh
mạch màng cứng não, tiếp cận ống thông qua đường tĩnh mạch hoặc đường động mạch, chọn vật liệu thuyên tắc như coils, onyx, n-BCA. Hiệu quả và độ an toàn được đánh giá dựa vào các biến: tắc hoàn toàn, tỉ lệ thành công thủ
thuật, cải thiện lâm sàng, biến chứng thủ thuật.
Kết quả: Có 31 bệnh nhân được can thiệp nội mạch dò động tĩnh mạch màng cứng não. Phân loại Cognard hay gặp nhất là type IIa+IIb với 54,8%, type IIa với 29,1%. Thành công kỹ thuật với tắc được hoàn toàn lỗ dò bằng
đường tĩnh mạch (TM) là 88,4% (23/26) trường hợp, bằng đường động mạch (ĐM) là 80% (4/5) trường hợp, kết hợp đường ĐM và TM 66,7% (2/3) trường hợp, thất bại chung 6,4% (2/31) trường hợp. Kết quả sau 1 tháng theo dõi ghi nhận: tử vong (0%), xuất huyết não 3,2% (1/31), đau đầu nôn mửa 9,6% (3/31).
Kết luận: Điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng não bằng kỹ thuật can thiệp nội mạch là kỹ thuật an toàn và hiệu quả.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Dò động tĩnh mạch màng cứng não, phân loại Cognard, tắc hoàn toàn, can thiệp nội mạch
Tài liệu tham khảo
1. Borden Jonathan A (1995). A proposed classification for spinal and cranial dural arteriovenous fistulous malformations and implications for treatment.Journal of Neurosurgery.82 (2).
2. Cheng KM, Chan ML, Cheung YL, et al (2003). Transvenous embolisation of dural carotid-cavernous fistulas by multiple venous routes: a series of 27 cases.Neurochirurgica.145 (1).
3. Cognard C, Gobin P, Pierol L et al (2010). Cerebral dural arteriovenous fistulas: clinical and angiographic correlation with a revised classification of venous drainage. Journal of Neurosurgery, 58, 62-68.
4. Cognard C, Januel A C, et al (2010). Endovascular Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas with
Cortical Venous Drainage: New Management Using Onyx. Neuroradiol.
5. Jae Sang Oh, Seok Mann, Hyok Jin Oh, et al (2016). Endovascular Treatment of Dural Arteriovenous Fistulas:
Single Center Experience. Neurosurg, 59, 17-25.
6. Julius Griauzde,Joseph J Gemmete, Aditya S Pandey, Neeraj Chaudhary (2016). Dural carotid cavernous
fistulas: endovascular treatment and assessment of the correlation between clinical symptoms and the Cognard
classification system. J NeuroIntervent, 10.
7. Panagiotis Zogopoulos, Hajime Nakamura, Tomohiko Ozaki, et al (2015). Endovascular Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas -Clinical and Radiographic Outcome Over A Long-Term Follow-Up. J Neurol Neurosurg.1(1).
8. Saraf R, Shrivastara M, Siddhathar W, et al (2010). Endovascular Treatment of Dural Arteriovenous Fistulas:
Single Center Experience. Neuro India, 58, 62-68.
9. Venturi C,Bracco S, Cerase A, et al (2003). Endovascular treatment of a cavernous sinus dural arteriovenous
fistula by transvenous embolisation through the superior ophthalmic vein via cannulation of a frontal vein. Neuroradiology.45 (8).